Việt Nam là nước tiếp giáp biển với đường bờ biển rất dài. Nhờ ưu thế này, nhiều cơ hội phát triển kinh tế đã được mở ra. Để có thể tận dụng tối đa ưu thế đó, việc tìm hiểu các kiến thức liên quan đến vấn đề biển đảo là điều rất quan trọng và cần thiết. Bài viết sau đây của công ty Luật TNHH Everest sẽ cung cấp thông tin liên quan tới lĩnh vực này, cụ thể là những quy định về vùng nội thủy.
Contents
Nội thủy là gì?
Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (được thông qua tại Montego Bay của Jamaica ngày 10/12/1982), các quốc gia ven biển có các vùng biển sau: vùng nội thủy, vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Đối với vùng nội thủy, Điều 8 của Công ước này đã quy định rất rõ ràng, theo đó, vùng nội thủy được hiểu là toàn bộ vùng nước tiếp giáp với bờ biển và nằm phía trong của đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải. Theo quy định này, nội thủy sẽ bao gồm cả vùng cửa sông, vũng, vịnh, vùng nước ở phía trong đường cơ sở và giáp với bờ biển. Phần vùng nước lịch sử cũng theo chế độ nội thủy. Công ước này cũng quy định đối với vùng nội thủy, các quốc gia sẽ có chủ quyền tuyệt đối.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, cụ thể tại Điều 9 Luật Biển năm 2012, nội thủy được xác định là “vùng nước tiếp giáp với bờ biển, ở phía trong đường cơ sở và là bộ phận của lãnh thổ Việt Nam”.
Xem thêm thông tin về UNCLOS 1982
Cách phân định vùng nội thủy
Đường cơ sở duyên hải là căn cứ để phân định vùng nội thủy. Khi tiến hành tính toán vùng nội thủy cần xem xét cả các cửa sông, các vũng vịnh mà toàn phần thuộc quốc gia ven biển thì sẽ được tính theo quy thức sau đây:
Trường hợp có một con sông chảy trực tiếp ra biển, đường cơ sở được xác định là đường thẳng đi ngang qua các cửa sông và nối các điểm ở mực nước thấp nhất trên hai bờ của sông. Mực nước thấp nhất này còn gọi là mực nước ròng, được đo trung bình trong nhiều năm.
Trường hợp một vịnh nhỏ với toàn phần thuộc hẳn về một quốc gia, vấn đề cần lưu ý đầu tiền là xác định bản chất của vịnh này. Đây có thật sự là vịnh “đúng” hay không (tức là vịnh đúng theo địa hình) hay chỉ là một đoạn thụt vào tự nhiên của bờ biển. Theo khoản 2 Điều 10 Công ước về Luật Biển năm 1982, một vịnh được coi là vịnh “đúng” nếu diện tích của phần bị lõm vào bị cắt bởi đường cơ sở lớn hơn hoặc bằng diện tích của hình bán nguyệt được tạo ra với đường kính bằng chính chiều dài của phân đoạn đường cơ sở tại phần lõm vào đó. Đối với đoạn lõm có đảo thì hình bán nguyệt bán nguyệt tưởng tượng này sẽ có đường kính bằng tổng chiều dài các phân đoạn của các đường cơ sở. Bên cạnh đó, chiều dài của đường kính này không được vượt quá 24 hải lý. Theo quy định thì vùng nước bên trong của đường cơ sở tưởng tượng này cũng được coi là nội thủy. Tuy nhiên, quy tắc này không được áp dụng cho các vũng, vịnh đã thuộc chủ quyền của một quốc gia nào đó có tính chất lịch sử hoặc trong trường hợp việc áp dụng đường cơ sở thẳng là hợp lý.
Tìm hiểu thêm thông tin khác về luật đường bộ
Xem thêm thông tin khác về thềm lục địa, click ngay
Chế độ pháp lý của vùng nội thủy
Vùng nội thủy được coi như vùng lãnh thổ đất liền. Với vùng nội thủy, các quốc gia ven biển này thực hiện chủ quyền của mình một cách hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ. Chủ quyền về vùng nội thủy này bao gồm cả vùng trời bao trùm lên vùng nội thủy, vùng đáy và vùng lòng đất dưới đáy biển.
Với vùng nội thủy, các phương tiện vận tải của các quốc gia khác không được phép đi vào. Chỉ khi có sự cho phép của nước sở tại, các phương tiện này mới có thể tiến vào vùng nội thủy. Đây cũng là điều thể hiện đặc trưng cho tính chủ quyền của quốc gia đối với vùng nội thủy. Thủ tục xin phép đi lại tại vùng nội thủy của một quốc gia do luật biển quốc tế quy định và do pháp luật quốc gia điều chỉnh.
Trong trường hợp phương tiện vận tải nước ngoài tiến vào vùng nội thủy khi chưa có sự cho phép của quốc gia ven biển, thì các quốc gia này có thể thực hiện các quyền tài phán dân sự.
Nếu phương tiện này được hưởng quyền miễn trừ, ví dụ như phương tiện của nhà nước dùng với mục đích phi thương mại hay quân sự; các quốc gia ven biển có vùng nội thủy có quyền yêu cầu các phương tiện này buộc phải rời vùng nội thủy đồng thời kiến nghị quốc gia của các phương tiện này áp dụng các biện pháp trừng phạt vi phạm. Quốc gia mà các phương tiện này mang cờ sẽ phải chịu trách nhiệm về mọi thiệt hại do hành vi phạm pháp của phương tiện đó gây ra.
Đối với các vi phạm hình sự và dân sự trên tàu thuyền nước ngoài, luật của quốc gia mà tàu mang cờ sẽ được áp dụng. Quốc gia ven biển có thể can thiệp trong trường hợp sau đây:
Hành vi phạm tội do một người ngoài thuỷ thủ đoàn thực hiện;
Thuyền trưởng yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại can thiệp;
Hậu quả của hành vi vi phạm gây mất an ninh trật tự của cảng.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, chế độ pháp lý của vùng nội thủy được xác định như sau: “Nhà nước thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ đối với nội thủy như trên lãnh thổ đất liền” (Điều 10 Luật Biển năm 2012).
Thông tin khác về lãnh hải
Chi tiết thông tin về vùng tiếp giáp lãnh hải
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
1.Bài viết trong lĩnh vực pháp luật dân sự được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
2.Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
3.Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, E-mail: info@everest.org.vn