Hiện nay, xoay quanh vấn đề pháp lý về biển, có rất nhiều tranh cãi xảy ra. Một trong số đó liên quan đến thềm lục địa. Bài viết này sẽ tìm hiểu về chế độ pháp lý thềm lục địa.
Contents
Thềm lục địa là gì?
Thềm lục địa là một phần của rìa lục địa, từng là các vùng đất liền trong các thời kỳ băng hà còn hiện nay là các biển tương đối nông (biển cạn) và các vịnh. Các thềm lục địa có độ dốc thoải đều (1-2°) và thông thường kết thúc bằng các sườn rất dốc (hay còn gọi là đứt gãy thềm lục địa).
Bạn có thể tìm đọc thêm bài viết về nội thủy
Lịch sử hình thành thềm lục địa
Hiện nay, khái niệm về thềm lục địa đã được quy định rõ, tuy nhiên sự ra đời của khái niệm “thềm lục địa” trong luật biển quốc tế phải trải qua một thời gian dài điều chỉnh, phát triển mới có được như ngày hôm nay.
Lần lượt với Tuyên bố của Tổng thống Mỹ Truman năm 1945 rồi Công ước Giơnevơ về thềm lục địa năm 1958, phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế năm 1969 cho đến Công ước Viên năm 1982 về luật biển, bản chất pháp lý cũng như chế độ pháp lý của thềm lục địa đã được xác định rõ ràng. Việc xác định này đã tạo ra sự bình đẳng giữa các quốc gia trong việc xác định thềm lục địa pháp lý của mỗi quốc gia trên thế giới.
Quy định chung về thềm lục địa
Thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển, trên phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia cho đến bờ ngoài của rìa lục địa hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia ở khoảng cách gần hơn. Trong trường hợp bờ ngoài của rìa lục địa kéo dài tự nhiên vượt quá khoảng cách 200 hải lí tính từ đường cơ sở, quốc gia ven biển có thể xác định chiều rộng thềm lục địa của mình không quá 350 hải lí tính từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lí kể từ đường đẳng sâu 2500 m với điều kiện tuân thủ các quy định cụ thể về việc xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa trong Công ước luật biển 1982.
Trừ trường hợp thểm lục địa của các quốc gia chồng lấn hoặc tiếp liền nhau chiều thì rộng tối thiểu của thềm lục địa là 200 hải lí tính từ đường cơ sở, chiều rộng tối đa của thềm lục địa là 350 hải lí tính từ đường cơ sở hoặc không vượt quá 100 hải lí kể từ đường thẳng sâu 2500m. Trong vùng thềm lục địa, theo quy định của Công ước luật biển 1982, quốc gia ven biển thực hiện các quyền thuộc chủ quyền về thăm dò khai thác tài nguyên thiên nhiên. Đối với vùng nước phía trên thềm lục địa và không phận phía trên vùng nước đó, tàu thuyền của các nước được tự do hàng hải, phương tiện bay của các nước được tự do hàng không.
Bạn có thể tìm đọc thêm bài viết về vùng tiếp giáp lãnh hải
Chế độ pháp lý của thềm lục địa
Quyền của quốc gia ven biển
Thứ nhất, quyền chủ quyền đối với tài nguyên thiên nhiên. Quốc gia ven biển có quyền chủ quyền về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên tại thềm lục địa (Khoản 1 Điều 77 và Điều 81 Công ước luật biển năm 1982). Tài nguyên thiên nhiên tại thềm lục địa không chỉ có tài nguyên phi sinh vật mà còn cả tài nguyên sinh vật thuộc loại định cư.
Các quyền chủ quyền của quốc gia ven biển về mặt thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa mang tính đặc quyền, nghĩa là nếu quốc gia ven biển này không thăm dò thềm lục địa hay không khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động này, nếu không có sự thoả thuận rõ ràng của các quốc gia đó.
Thứ hai, quyền tài phán của quốc gia ven biển: Bên cạnh quyền chủ quyền đối với việc thăm dò và khai thác các tài nguyên thiên nhiên trên thềm lục địa, quốc gia ven biển còn có các quyền tài phán đổi với các đảo nhân tạo, các thiết bị, công trình trên thềm lục địa, quyền tài phán về nghiên cứu khoa học biển, quyền tài phán về bảo vệ và gìn giữ môi trường biển tương tự như trong vùng đặc quyền kinh tế nhằm ngăn ngừa, hạn chế ô nhiễm do các hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc quyền tài phán quốc gia.
Thứ ba, quốc gia ven biển có thềm lục địa mở rộng quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải phải có nghĩa vụ đóng góp bằng tiền hay bằng hiện vật khi khai thác các tài nguyên thiên nhiên không sinh vật của thềm lục địa nằm ngoài 200 hải lý. Các khoản đóng góp này được nộp hàng năm tính theo toàn bộ sản phẩm thu hoạch được tại khu vực khai thác (Điều 60 và Điều 80 Công ước luật biển năm 1982):
(i) 5 năm đầu được miễn đóng góp.
(ii) Từ năm thứ sáu đóng góp 1% của giá trị hay khối lượng sản phẩm khai thác được ở điểm khai thác.
(iii) Mỗi năm sau đó tăng thêm 1%.
(iv) Tới năm thứ 12, tỉ lệ đóng góp sẽ đạt mức 7%. Mức này sẽ được duy trì không thay đổi cho các năm tiếp theo.
Quyền của quốc gia khác
Tất cả các quốc gia đều có quyền tự do hàng hải, tự do hàng không. Công ước luật biển năm 1982 khẳng định, các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không đụng chạm đến chế độ pháp lý của vùng nước ở phía trên hay của vùng trời phía trên vùng nước này. Việc quốc gia ven biển thực hiện các quyền của mình đối với thềm lục địa không được gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền và tự do khác của các quốc gia đã được Công ước thừa nhận, cũng không được cản trở việc thực hiện các quyền này.
Tất cả các quốc gia đều có quyền đặt dây cáp và ống dẫn ngầm tại thềm lục địa (Điều 79 Công ước luật biển năm 1982). Tuy nhiên, quyền này của các quốc gia có một số hạn chế sau:
(i) Trong điều kiện khi quốc gia ven biển thi hành các biện pháp hợp lý nhằm thăm dò thềm lục địa, khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa và ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do ống dẫn ngầm gây ra, quốc gia ven biển có quyền hạn chế quyền lắp đặt hệ thống ống dẫn ngầm của các quốc gia khác.
(ii) Quốc gia đặt ống dẫn ngầm phải thoả thuận với quốc gia ven biển về tuyến đường đi của ống dẫn.
(iii) Khi đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm, các quốc gia phải tính đến các dây cáp và ống ngầm đã được đặt từ trước, đặc biệt họ cần lưu ý không làm hại đến khả năng sửa chữa các đường dây cáp và ống dẫn đó.
Bạn có thể tìm đọc thêm các bài viết về Unclos 1982
Bạn có thể tìm đọc thêm các bài viết về luật đường bộ
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest
- Bài viết trong được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, E-mail: info@everest.org.vn.